Thứ Năm Tuần III Mùa Phục Sinh
Cv 8, 26-40; Ga 6, 44-51
LƯƠNG THỰC TRƯỜNG TỒN
Sự sống là nhu cầu căn bản nhất của con người, đặc biệt trong thời đại hôm nay, người ta thường đưa ra đủ mọi phương cách để giữ gìn và kéo dài sự sống. Mỗi khi có một căn bệnh nan y xuất hiện thì cũng kèm theo ngay những phương thuốc có khả năng chữa lành. Nhưng rồi mỗi ngày con người càng nhận ra rõ hơn những bất lực của chính mình, mà ngay cả những phát minh khoa học tối tân nhất cũng phải đầu hàng trước nhiều cái chết được xem như bí nhiệm, đã gây nên cho con người biết bao sửng sốt, ngỡ ngàng, hoang mang và dao động liên tục. Bởi lẽ cuộc sống trần gian này chỉ là sự sống của thân xác mong manh, mau qua chóng tàn như hơi thở thoáng bay. Vậy đâu là sự sống đích thực viên mãn mà con người hằng khát khao mong đợi? Đâu là bài thuốc bất tử có thể đáp ứng nhu cầu sự sống vĩnh cửu cho con người?
Ta thấy luôn luôn có sự giằng co giữa thực tại trần gian và Nước Trời để rồi hệ lụy của việc chỉ tìm kiếm thỏa mãn nhu cầu phần xác mà quên đi những giá trị thiêng liêng dẫn đến chán chường thất vọng và tự tìm đến cái chết như một dấu chấm của cuộc đời. Hơn lúc nào hết người ta thống kê được ở những quốc gia càng văn minh tiến bộ lại càng nhiều người tự tử. Phần lớn người tự tử ở độ tuổi rất trẻ. Trong đó, có người giàu, người nghèo, có cả giới văn nghệ sĩ, diễn viên...Người ta muốn chết không phải vì thiếu ăn thiếu mặc nhưng vì thiếu niềm tin, thiếu lẽ sống, họ cảm thấy cuộc sống quá nhàm chán, vô nghĩa. Họ rơi vào cơn “trống rỗng tâm linh” và muốn tự quyết định cuộc đời mình.
Thiên Chúa yêu thương đã cho chúng ta được sống làm người có thân xác và linh hồn bất tử. Vũ trụ này xinh đẹp, tầng trời cao xanh, hoa trái ngọt lành, những tia nắng ấm, cơn mưa mát mẻ...tất cả đều được tạo nên vì con người. Thiên Chúa quan phòng còn chuẩn bị cho con người mọi thứ để có cuộc sống đầy đủ đến nỗi tác giả thánh vịnh 64 đã cất lên lời tạ ơn : «Bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo màu mỡ ngập tràn lối đi. Vùng hoang địa xanh rì ngọn cỏ, cảnh núi đồi hớn hở tươi xinh. Chiên cừu phủ trắng đồng xanh, lúa vàng dưới lũng rung rinh dạt dào...» Thật vậy, nỗi bận tâm lớn nhất của Thiên Chúa là yêu thương và cứu chuộc loài người. Ngài không nỡ để cho chúng ta ăn bánh hay hư nát, sống lang thang tạm bợ và chết trong sa mạc như thời tiên tổ nên đã cho Đức Giêsu xuống như bảo chứng thật cho chúng ta sự sống viên mãn.
Và ta thấy tại hội đường Capharnaum năm xưa, Chúa Giêsu tuyên bố: “Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. Ta là bánh ban sự sống” (Ga 6,47). Quả thật, Đức Giêsu là Đấng Messia mà muôn dân trông đợi. Ngài là Đấng Cứu Độ mà Thiên Chúa hứa ban cho con người sau khi nguyên tổ phạm tội (x.St 3,15). Ai tin Chúa Giêsu thì được Thiên Chúa cưu mang trong đời sống mới và được cứu độ. Đồng thời, đức tin ấy cũng sẽ được nuôi dưỡng bằng chính Thịt và Máu của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay đã trả lời cho chúng ta về chân lý đích thực của sự sống: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (c.51ab). Lời xác quyết của Đức Giêsu đã thực sự làm thỏa mãn cơn khát sự sống hằng ấp ủ từ sâu thẳm nội tâm con người qua bao thời đại. Nhưng làm cách nào chúng ta có thể đón nhận được sự sống đích thực do chính Đức Giêsu mang đến?
Thiên Chúa đã yêu thương tạo dựng nên chúng ta để được tận hưởng sự sống vĩnh cửu trong vương quốc yêu thương của Ngài. Vì thế, Thiên Chúa Cha luôn không ngừng dẫn dắt con người đi vào trong quỹ đạo yêu thương bằng sự nhận biết về Ngài qua con người Đức Giêsu. Chúa Giêsu đã quả quyết: “Không ai có thể đến với Ta, nếu Cha, Đấng đã sai Ta không lôi kéo nó” (c.44). Thiên Chúa luôn có nhiều cách thức để giúp chúng ta nhận biết tình yêu của Ngài. Đặc biệt qua trung gian Đức Giêsu, Con Một yêu dấu của Ngài. Trong mỗi biến cố cuộc sống, với sự tĩnh lặng của lương tâm, hay nhờ những trung gian của Giáo hội, Thiên Chúa lôi kéo chúng ta đến nhận biết Đức Giêsu và tin vào Ngài, vì chính Ngài cũng là Thiên Chúa yêu thương và quyền năng. Ngài đã đến giữa lòng nhân loại với kiếp sống con người. Ngài yêu thương hiến thân phục vụ và cuối cùng đã chịu đau khổ và chết vì tội lỗi nhân loại. Nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài phục sinh vinh hiển, chính nhờ sự phục sinh của Ngài mà chúng ta hy vọng được trả lại sự sống vĩnh cửu mà Ađam đã đánh mất xưa kia. Thiên Chúa vẫn âm thầm hiện diện trong cuộc sống chúng ta để lôi kéo chúng ta đến với Đức Giêsu lãnh nhận sự sống vĩnh cửu. Nhưng đấy lại là tự do của mỗi chúng ta! Chúng ta có quyền đón nhận hay từ chối?
Bí tích Thánh Thể mà chúng ta lãnh nhận là bí tích của đức tin. Vì chỉ có đức tin là con đường duy nhất đưa ta đến với mầu nhiệm cực trọng này. Nơi bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu hằng chờ đợi chúng ta đến với Ngài. Trong hình bánh bé nhỏ, Chúa Giêsu chờ đợi ta rước lấy Ngài; nhờ vậy, chúng ta sẽ được bao bọc trong ân sủng và được củng cố trong tình yêu của Ngài. Nhờ rước Thánh Thể, chúng ta sẽ thoát khỏi tình trạng dửng dưng, nguội lạnh; giúp chúng ta tránh được các tội nguy tử và chống lại các tội nhẹ một cách hữu hiệu. Hơn thế nữa, Thánh Thể gia tăng sự sống siêu nhiên, làm cho sự sống ấy lớn mạnh và triển nở, gợi lên trong linh hồn lòng khát khao những thực tại vĩnh cửu: “Ai đến với Ta sẽ không hề đói; ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ” (Ga 6,35).
Đức Giêsu đã sống lại để đưa chúng ta vào sự sống vĩnh cửu nơi Vương quốc của Chúa Cha. Nhưng điều kiện là chúng ta phải lãnh nhận mình máu Ngài từ hy lễ Thánh Thể hằng ngày. Chúng ta cần can đảm và dứt khoát từ bỏ những quyến rũ của nhiều tấm bánh “manna” trong cuộc sống hiện tại, để tâm hồn nhẹ nhàng thanh thoát tiến đến Bàn tiệc Thánh Thể lãnh nhận Bánh hằng sống. Chính Đấng phục sinh có sức biến đổi và cảm hóa chúng ta mỗi khi chúng ta lãnh nhận Mình Máu Ngài. Chính Ngài thông ban cho chúng ta sự sống thần linh ngay từ đời này bằng một cuộc sống an bình, yêu thương và tràn đầy hạnh phúc. Dẫu rằng cuộc đời còn lắm gian nan và thách đố, nhưng với tình yêu của Đấng phục sinh, chúng ta đủ sức mạnh để vượt thắng tất cả.
Điều kiện nào để hưởng được sự sống ấy, đó là phải TIN «ai tin thì được sống đời đời». Vậy căn nguyên của nguồn sống ấy là tin. Vì như các vị tổ tiên xưa cũng được ăn bánh nhưng họ đã đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa khi gặp thử thách trong sa mạc, khi phải lưu đày trốn chạy nơi đất khách quê người, nơi rừng hoang núi thẳm. Chúa Giêsu e ngại người ta nhầm lẫn chỉ tìm kiếm Chúa như ông chủ của «một cửa hàng cung cấp lương thực, thực phẩm» mà quên rằng niềm tin vào Chúa mới giải thoát họ khỏi án chết của tội lỗi. Một lần nữa Chúa Giêsu khẳng định lại rằng sự sống nơi thân xác, cái ăn cái mặc là điều kiện cần nhưng chưa đủ, chỉ niềm tin mới đưa con người ta đến được Chân Trời Sống Mới, đến Bến Bờ Hạnh Phúc.
Khi chúng ta ăn bánh trường sinh không phải là ăn thứ thực phẩm giàu chất dinh dưỡng nhưng là ăn thịt máu Chúa Giêsu, một món quà tình yêu cao quý không gì sánh bằng. Mẹ Têrêsa Calcutta bảo rằng “Khi ta trao cho ai một món quà và nếu nó là một mất mát hy sinh to lớn đối với ta thì món quà đó càng trở nên quý giá”. Một người mẹ trao tặng sự sống cho con đó là món quà lớn nhất, kết quả của chín tháng cưu mang với muôn vàn vất vả hy sinh. Một người cha tặng cho con món quà quý giá là khi ông dành sức lực thời giờ cả một đời người để nuôi dạy con nên người. Một người tình trao tặng món quà quý nhất cho người mình yêu khi họ dám hy sinh tất cả vì người mình yêu. Với ý nghĩa đó, Thiên Chúa là kiểu mẫu của người tặng quà. Món quà đó là người Con Một yêu dấu với một trái tim đầy ắp tình yêu đã hiến trọn thân mình qua cái chết trên thập giá.
Đức Giêsu đang thì thầm bên tai chúng ta: “Ta là bánh trường sinh!” (c.48). Chính Chúa chứ không phải là những tấm bánh “manna” dưới muôn vàn hình thức tốt đẹp, nhưng chỉ đem lại sự chết muôn đời. Chúng ta có muốn đến với Ngài để ăn chính Ngài và để được sống đời đời không? Quả thật không đơn giản chút nào, vì nhiều khi chúng ta đã bị nhận chìm dưới vũng lầy của muôn ngàn “manna” trá hình. Lời Chúa hôm nay đang thức tỉnh chúng ta hãy đứng lên quay trở về bên Ngài để lãnh nhận sự sống, tình yêu và hạnh phúc “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (c.51b).