Xây dựng cộng đoàn - Hội Dòng vững chắc
"ĐỜI SỐNG HUYNH ĐỆ TRONG CỘNG ĐOÀN"
- KHÁI NIỆM VỀ CỘNG ĐOÀN
- Từ nguyên:
Cộng đoàn: tiếng Latinh: « communis », communauté (tiếng Pháp): cộng đoàn. Gốc từ « cum »: « với », « cùng », và từ « munus »: trách vụ, nợ.
Tùy theo chức năng mà từ cộng đoàn có tên gọi khác nhau. Những người trong liên hệ công việc thì không gọi là cộng đoàn mà gọi là một tổ chức hay một hiệp hội (Organisation, Association), cộng đoàn mang tính quốc gia thì gọi là dân tộc, đất nước, nhà nước (Etat, Nation, Patrie)…
Khi nói đến cộng đoàn thường nói đến các cộng đoàn dòng tu, một yếu tố cấu thành nên sự thánh hiến và là một phương thế căn bản làm nổi bật lên những giá trị của đời tu như: cầu nguyện, các lời khấn, đặc sủng, sứ vụ...
Cộng đoàn đời tu được định nghĩa: là một tập hợp những cá nhân, những người cùng hoạt động và cùng có quan hệ với nhau theo cách diện đối diện xung quanh một cùng đích chung. Mối tương quan lâu dài họ có với nhau đủ để họ có ảnh hưởng hoặc tác động trên nhau, đủ để thiết lập và xác định rõ ràng tư cách là thành viên của mỗi người và để hoạt động cách đồng nhất. Họ được gọi để sống và chia sẻ các giá trị Tin Mừng.
- NHỮNG HÌNH THỨC CHÍNH CỦA CỘNG ĐOÀN
Hai hình thức chính : Cộng đoàn tự phát và cộng đoàn cơ chế.
- Cộng đoàn tự phát
Loại cộng đoàn này không có tính ràng buộc cao như: một nhóm sinh viên hoặc công nhân sống chung trong một nhà, một xưởng hay trong một xí nghiệp. Trong những cộng đoàn như thế thường không có nội qui chặt chẽ, cũng không có người đứng đầu có tính pháp lý để điều chỉnh nếp sống. Họ có thể tồn lại lâu vì có sự am hợp nhau, họ cảm thấy có thể chấp nhận lẫn nhau và quyết định sống chung với nhau vì công việc, vì hoàn cảnh hiện thời.
- Cộng đoàn cơ chế
Như cộng đoàn tu trì. Cộng đoàn tu trì có những luật lệ và những qui định chung cần phải tuân hành. Cộng đoàn này, các hoạt động của các thành viên được điều hành do một vị hữu trách. Vận hành theo cơ chế luật lệ, loại cộng đoàn thứ hai có ổn định, các thành viên dường như không gặp qúa nhiều khó khăn và thách đố để tồn tại, đặc biệt đối với những người đã có kinh nghiệm.
- NỀN TẢNG KINH THÁNH - BẢN CHẤT, MỤC ĐÍCH ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN
- Kinh Thánh
- Chính Thiên Chúa và trong Đức Kitô với tình yêu đã kêu gọi và quy tụ chúng ta nên một, thành cộng đoàn.
- Chúng ta đã đáp trả lời mời gọi của tình yêu Chúa để yêu Chúa và yêu tha nhân, quy tụ thành cộng đoàn những người nam, nữ, thuộc mọi chủng tộc, ngôn ngữ.
- Được sinh ra bởi Thần Khí, tức bởi Chúa, để hướng tình yêu tuyệt đối về Thiên Chúa.
- Bản chất và mục đích
- Chính tình yêu Chúa quy tụ cộng đoàn những con người thánh hiến vì Nước Trời, do việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm.
- Trọng tâm, nền tảng của cộng đoàn là mầu nhiệm hiệp thông Chúa Ba Ngôi và từ nguồn mạch này làm phát xuất Giáo Hội và kiểu mẫu sự hiệp thông cộng đoàn.
- Cộng đoàn tu trì trở nên thành phần của mầu nhiệm Giáo Hội nhằm phục vụ đời sống con người.
- CỘNG ĐOÀN, NƠI TRỞ NÊN ANH CHỊ EM TRONG SỰ HIỆP THÔNG THIÊNG LIÊNG
Để tồn tại lâu bền, tạo nên sức mạnh, phản ánh chất lượng đời sống tu trì, tạo nên sức thu hút, và tuyền giáo, yếu tố hiệp thông quyết định tất cả.
- Kinh nguyện
1.1 Các Giờ Kinh Phụng Vụ
Việc cử hành chung Các Giờ Kinh Phụng Vụ, hay ít là một phần, đã tiếp sinh khí cho kinh nguyện của cộng đoàn. Trong mọi cuộc cảnh tân cải tổ, chúng ta phải lưu tâm tới điều thiết yếu này. Kinh nguyện của cộng đoàn cần được chấn chỉnh lại, làm sao phải thấy được vị trí trung tâm ưu việt. Cần cử hành CGKPV cách trang nghiêm, sốt sắng. Thường chúng ta dễ rơi vào chủ nghĩa máy móc, làm chiếu lệ, nhất là khi gặp trở ngại về công việc. Thường ở các cộng đoàn lẻ, ít người, việc đọc Kinh Phụng Vụ thường diễn ra vắn tắt, rời rạc, không có chiều sâu. Từ đó, mọi sinh hoạt cộng đoàn trở nên hời hợt, xu thời.
1.2 Các Bí Tích và Bí tích Thánh Thể
Cộng đoàn được xây dựng khởi từ phụng vụ, đặc biệt từ việc cử hành bí tích Thánh Thể; Bí tích Hòa Giải và những bí tích khác, vì qua đó Thiên Chúa khôi phục sự hiệp nhất của Dòng.
-
- Lời Chúa, Thánh Thể và Các GKPV
Nếu mọi thành viên của Dòng trung thành giữ, có chiều sâu nội tâm, mới có thể chứng tỏ ra rằng lời ngợi khen, cảm tạ, chúc tụng của chúng ta hướng về Chúa có giá trị. Sự hiệp thông sâu xa của cộng đoàn phải bắt nguồn từ đây và ngay cả những khó khăn, thử thách của cộng đoàn cũng từ đây mà tìm được những giải pháp, những trị liệu xứng hợp. Chúng ta phải lưu tâm tới các cộng đoàn, các thành viên chểnh mảng về việc phượng thờ này.
- Việc đạo đức
- Việc cầu nguyện chung đạt được hiệu quả trọn vẹn khi liên kết mật thiết với việc cầu nguyện riêng. Cộng đoàn, các vị hữu trách cần thúc đẩy việc cầu nguyện cá nhân, một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa.
- Người tận hiến sống trong cộng đoàn sẽ nuôi dưỡng sự thánh hiến của mình vừa qua việc liên tục đối thoại cá nhân với Thiên Chúa, vừa qua lời ngợi khen và chuyển cầu của cộng đoàn.
- Sự thinh lặng bên trong và bên ngoài hầu dành một khoảng không gian cho Ngôi Lời và Thánh Thần, nhằm tái sinh những chiều sâu kín ẩn nhất.
- Sự chia sẻ trong việc đọc và suy gẫm Lời Chúa (Lectio Divina), cũng như việc chia sẻ những kinh nghiệm thiêng liêng của cá nhân và những thao thức tông đồ,
- Ở đâu được thực hành với tính tự phát và với sự đồng ý chung, sự chia sẻ như thế sẽ nuôi dưỡng đức tin, đức cậy cũng như lòng tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau, giúp thực hiện sự hoà giải và nuôi dưỡng tình liên đới huynh đệ trong lời cầu nguyện.
- Cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria lòng yêu mến dẫn chúng ta tới chỗ noi gương người là gương mẫu và sự hiện diện đầy tình mẫu tử của Mẹ trở thành sức hỗ trợ lớn lao giúp ta trung thành trong kinh nguyện hàng ngày (x. Cv 1, 14), đồng thời cũng là mối dây hiệp thông của cộng đoàn tu trì.
- Đức Thánh Cha trong Tông huấn "Hãy Nhảy Mừng Hân Hoan"- Nói "về ơn gọi nên thánh trong thế giới hôm nay" đã đề cập đến việc nên thánh khi hòa mình vào cộng đoàn các thánh, rồi nên thánh là bước đi cùng với anh chị em mình.
- Hoa trái - Nguy cơ
- Việc cầu nguyện chung: nâng đỡ và nuôi dưỡng nhiệt tình tông đồ. Là năng lực biến đổi kỳ diệu bao trùm tất cả mọi thực tại để cứu chuộc và xếp đặt trật tự cho thế giới. Là sự khích lệ trong tác vụ tông đồ, trong những niềm vui và khó khăn hàng ngày.
- Tạo cơ hội để tìm kiếm và khám phá ra sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa.
- Trở thành những nơi ưu tiên, ở đó mọi thành viên của Dòng cảm nghiệm được những nẻo đường dẫn đến Thiên Chúa.
- “Như một gia đình hiệp nhất nhân danh Thiên Chúa, cộng đoàn tu trì tự bản chất là nơi mà kinh nghiệm về Thiên Chúa phải đi tới chỗ trọn vẹn và chuyển thông cho những người khác một cách đặc biệt”, trước hết là cho các anh chị em của mình trong cộng đoàn.
- Ngày hôm nay, trong cuộc khủng hoảng mạnh mẽ về các giá trị tâm linh, bởi vậy, cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa, tức là cầu nguyện riêng thì rất quan trọng, sẽ giúp cho cộng đoàn và mỗi thành viên nghiệm trải thế nào là kinh nghiệm vượt qua của ngày hôm nay. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói điều này trong Tông Huấn “Niềm Vui Phúc Âm”: "Nếu không có những giờ phút lâu dài để tôn thờ, gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, chân thành đối thoại với Chúa, thì các nhiệm vụ dễ dàng mất hết ý nghĩa, chúng ta sẽ bị suy yếu vì mệt mỏi, vì những khó khăn và lòng nhiệt thành sẽ bị dập tắt..." (x. số 262).
- TỰ DO CÁ NHÂN VÀ TÌNH HUYNH ĐỆ
Để sống và giúp định hướng xây dựng cộng đoàn, chúng ta phải tránh mối nguy cơ "bằng mặt chứ không bằng lòng" hay một tình huynh đệ hời hợt bên ngoài. Cần phát triển đời sống cộng đoàn trong tự do và tình huynh đệ đích thật.
- Đức Kitô là tâm điểm
- « Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, và như vậy là chu toàn luật Đức Kitô » (Gl 6,21). Đức Kitô, trong mầu nhiệm Vượt Qua của Người, trở thành mẫu mực để xây dựng sự hiệp nhất.
- Phải thương yêu nhau như chính Người đã yêu thương chúng ta.
- Để sống với nhau như là anh em và chị em, cần phải có một cuộc hành trình giải phóng nội tâm đích thực.
- Tình yêu Chúa Kitô thôi thúc chúng ta yêu thương nhau đến độ nhận lấy những yếu đuối, những vấn đề và những khó khăn của nhau.
- Khổ giá xây dựng cộng đoàn
- Đức Kitô ban cho con người hai điều chắc chắn căn bản: chắc chắn được yêu vô biên và chắc chắn có khả năng yêu không giới hạn. Ngoài Thập Giá của Đức Kitô, không gì có thể ban phát đầy đủ và dứt khoát hai điều chắc chắn này cùng với sự tự do bởi hai điều đó mà ra.
- Nỗ lực khổ chế, là điều cần thiết và không thể thay thế cho bất cứ sự giải phóng nào nhằm biến đổi cộng đoàn huynh đệ Kitô giáo. Cộng đoàn mà không có tính cách huyền nhiệm thì không có hồn; nhưng cộng đoàn không có khổ chế thì không có xác.
- Người chính cuộc, không phải lữ khách
Chúng ta cũng được mời gọi trở nên người chính cuộc của cộng đoàn. Tổng Tu nghị cũng là thời gian thuận lợi để nhìn lại xem cách hiện hữu của mỗi người chỉ là "khách hàng" hay là người chính cuộc, đang nỗ xây dựng cộng đoàn, người có trách nhiệm đối với sự thăng tiến của cộng đoàn, người cởi mở và có khả năng lãnh nhận hồng ân của người khác; những người có thể giúp đỡ và được giúp đỡ; những người có thể thay thế và có thể được thay thế?
Khi chịu bỏ mình vì anh chị em, chúng ta tìm lại được chính mình. Tin Mừng đòi hỏi những người thánh hiến sống đời cộng đoàn, phải giống như hạt lúa mì, biết chết đi cho chính mình để làm nảy sinh đời sống huynh đệ.
Cộng đoàn trở thành “Schola Amoris”, trường dạy yêu mến, cho người trẻ cũng như cho người trưởng thành. Trong ngôi trường này, mọi người học biết yêu mến Thiên Chúa, yêu mến người anh em, chị em chung sống với mình và yêu mến đồng loại, những người đang rất cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa và tình liên đới huynh đệ.
Các cộng đoàn không thể tránh được hết mọi xung đột va chạm. Sự hiệp nhất mà chúng ta phải xây dựng là sự hiệp nhất được thiết lập bằng cái giá của sự hoà giải. Sự bất toàn trong cộng đoàn không được làm chúng ta nản chí.
Mỗi ngày, cộng đoàn lại lên đường, được giáo huấn của các Tông Đồ nâng đỡ :
- « Hãy thương mến nhau với tình huynh đệ; coi người khác trọng hơn mình » (Rm 12,10).
- « Hãy đồng tâm nhất trí với nhau » (Rm 12,16).
- « Hãy đón nhận nhau, như Đức Kitô đã đón nhận anh em » (Rm 15,7).
- « Tôi tin chắc rằng ... anh em ... có khả năng khuyên bảo nhau » (Rm 15,14).
- « Anh em hãy chờ nhau » (1Cr 11, 33).
- « Hãy đem lòng yêu thương mà làm tôi lẫn nhau » (Gl 5, 13).
- « Hãy an ủi nhau » (1 Tx 5,11).
- « Hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau » (Ep 4,2).
- « Phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau » (Ep 4,32).
- « Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau » (Ep 5,21).
- « Hãy cầu nguyện cho nhau » (Gc 5,16).
- « Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau » (1 Pr 5,5).
- « Chúng ta được hiệp thông với nhau » (1 Ga 1,7).
- « Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí... nhất là cho những anh em cùng trong đại gia đình đức tin » (Gl 6, 9-10).
- Đức tính xây dựng cộng đoàn hiệp thông
- Các đức tính cần có trong tất cả các mối quan hệ nhân bản: sự kính trọng, lòng tốt, sự chân thành, tự kiềm chế, lịch thiệp, biết khôi hài và tinh thần chia sẻ, đơn sơ vui vẻ, thẳng thắn và tín nhiệm lẫn nhau, có khả năng đối thoại và thành tâm chấp nhận kỷ luật tốt lành của cộng đoàn .
- Sự bình an và hoan lạc trong đời sống chung là những dấu chỉ của Nước Thiên Chúa. Hoa trái sẽ sinh ra:
- Niềm vui chính là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Tình huynh đệ không có niềm vui là tình huynh đệ đang chết.
- Chứng từ niềm vui là sự lôi cuốn mãnh liệt vào đời sống tu trì, là nguồn phát sinh những ơn gọi mới và khích lệ bền đỗ.
- Làm việc quá sức có thể huỷ diệt niềm vui, nhiệt tình quá độ đưa một số người tới chỗ quên lãng niềm vui, việc không ngừng tự phân tích căn tính và tương lai của mình cũng có thể che khuất niềm vui.
- Có thể vui sống với nhau; dành thời gian cho việc giải trí cá nhân và tập thể; thỉnh thoảng tạm dừng công việc một chút; chia sẻ niềm vui nỗi buồn của anh chị em mình; tin tưởng dấn thân làm việc tông đồ; trắc ẩn trước mọi tình huống; nhìn về ngày mai với niềm hy vọng gặp gỡ Thiên Chúa mọi lúc và mọi nơi: đó chính là những nhân tố nuôi dưỡng sự thanh thản, bình an và niềm vui: những nhân tố này trở thành sức mạnh trong hoạt động tông đồ.
- Niềm vui là chứng từ rực rỡ cho phẩm chất Tin Mừng của cộng đoàn tu trì; nó là đích điểm của một cuộc hành trình đầy gian lao, nhưng vẫn có thể hoàn tất vì được nâng đỡ nhờ lời cầu nguyện: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện” (Rm 12, 12).
- TRỞ NÊN ANH CHỊ EM QUA TRUYỀN THÔNG ĐỂ CÙNG THĂNG TIẾN
Để trở nên những thành viên đích thực xây dựng cộng đoàn là phải hiểu biết nhau hơn. Bởi vậy, điều rất quan trọng là phải truyền thông nhiều hơn, sâu sắc, tín nhiệm và chân thành hơn.
- Cấp Trung Ương
Những cuộc hội họp thường lệ giữa những thành phần thuộc các cấp bậc khác nhau: cấp Trung Ương, Miền, Tỉnh Dòng đã gia tăng; Các Bề trên thường gửi những thư luân lưu và những cuộc thăm viếng các cộng đoàn thường xuyên hơn; Việc xuất bản các thông tin và nội san định kỳ cũng phổ biến hơn. Việc truyền thông ở các cấp độ khác nhau tương ứng với đặc tính riêng của từng Hội dòng:
- Tạo nên những mối liên hệ gần gũi hơn.
- Nuôi dưỡng tinh thần gia đình và sự chia sẻ mối quan tâm của toàn thể Hội dòng
- Giúp nhạy cảm hơn đối với các vấn đề chung.
- Đem các tu sĩ lại gần nhau hơn quanh sứ vụ chung của họ.
- Cấp cộng đoàn, rất hữu ích
- Giúp các thành viên chia sẻ các vấn đề liên quan đến cộng đoàn, đến Hội dòng, đến Giáo hội, và các tài liệu quan trọng của Giáo hội.
- Tạo cơ hội để lắng nghe nhau.
- Chia sẻ những ý nghĩ riêng của mỗi người.
- Nhìn lại và đánh giá những kinh nghiệm quá khứ.
- Cùng nhau suy nghĩ và thảo kế hoạch.
- Thiếu truyền thông
- Suy giảm tình huynh đệ.
- Mọi người trở thành những người xa lạ với nhau.
- Tạo nên những cô lập và cô đơn.
- Thiếu hoặc không có sự chia sẻ, nâng đỡ nhau giữa các cộng đoàn.
- Kinh nghiệm thiêng liêng một cách vô tình sẽ mang màu sắc cá nhân.
- Tâm trạng tự mãn trở nên quan trọng hơn.
- Phát sinh thái độ thiếu nhạy cảm với những phát triển của người khác.
- Dần dần người ta đi tìm kiếm những mối quan hệ có ý nghĩa ở bên ngoài cộng đoàn.
- TRỞ THÀNH CỘNG ĐOÀN NHỜ VIỆC HUẤN LUYỆN LIÊN TỤC
Huấn luyện liên tục vấn đề sinh tử đối với tương lai cộng đoàn. Có hai khía cạnh cần nhấn mạnh trong việc huấn luyện đó là chiều kích cộng đoàn trong các lời khuyên Phúc Âm và Đoàn sủng.
- Chiều kích cộng đoàn trong các lời khuyên Phúc Âm
- Khấn dòng để thánh hiến và cùng được thánh hiến
Lời tuyên khấn của các tu sĩ diễn tả hồng ân dâng hiến bản thân cho Thiên Chúa và cho Giáo hội là hồng ân được sống trong cộng đoàn của một gia đình tu trì.
Người tu sĩ không chỉ “được kêu gọi” đến một ơn gọi riêng cá nhân. Họ “cùng được kêu gọi”:
- Cùng với những người khác để chia sẻ đời sống hằng ngày, sống trong một cộng đoàn duy nhất.
- Cùng được thánh hiến để theo Chúa Kitô “vâng phục, khó nghèo và khiết tịnh”.
- Được sống trong tình huynh đệ.
- Được hợp nhất trong sứ mạng loan báo một cách ngôn sứ việc chống lại ngẫu tượng quyền lực, chiếm đoạt và khoái lạc.
- Ba lời khấn
- Vâng phục là “xin vâng” đối với kế hoạch của Thiên Chúa.
- Lời thưa “xin vâng” gắn liền với sứ vụ và với cộng đoàn, ở đây, lúc này và với nhau.
- Lời thưa “xin vâng” đòi hỏi một cái nhìn đức tin sáng suốt đối với các bề trên, những người “thực thi nhiệm vụ lãnh đạo và phục vụ” và là những người phải nhận ra sự hài hoà giữa công tác tông đồ và sứ vụ.
- Chính trong việc họ hiệp thông với nhau mà ý muốn của Thiên Chúa được hoàn tất.
-
- Khó nghèo
- Sự chia sẻ vật chất và tinh thần, là nền tảng cho sự hiệp thông huynh đệ.
- Sự khó nghèo của cá nhân gắn liền với một lối sống giản dị và khắc khổ: Giải thoát người tu sĩ khỏi những bận tâm liên hệ đến quyền sở hữu riêng tư; Làm phong phú cộng đoàn; Giúp cộng đoàn phục vụ Thiên Chúa và người nghèo cách hữu hiệu hơn.
- Sự khó nghèo bao hàm một chiều kích kinh tế: khả năng quyết định về tiền bạc như là của riêng mình.
- Khó nghèo trong tinh thần:
- Khiêm tốn
- Đơn giản
- Nhìn nhận những hồng ân của người khác
- Đánh giá các thực tại Tin Mừng như là đời sống ẩn giấu với Đức Kitô trong Thiên Chúa.
- Kính trọng hy sinh âm thầm.
- Nhìn nhận những người hèn kém nhất.
- Tận tuỵ với những cố gắng cả khi không được biết đến hay không được trả công.
-
- Khiết tịnh
- Sự trong sạch tâm hồn, trái tim và thân thể, biểu lộ sự tự do lớn lao để yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tất cả những gì thuộc về Người, bằng một tình yêu không chia sẻ.
- Không ích kỷ cũng không độc quyền, không chiếm hữu cũng không nô lệ đam mê, nhưng phổ quát và vô vị lợi, tự do và giải thoát.
- Tình yêu này được vun trồng và lớn lên qua đời sống huynh đệ.
- Hệ luận: Chiều kích cộng đoàn của các lời khấn dòng cần phải được tiếp tục nuôi dưỡng và đào sâu, vì đó là một tiến trình mang tính chất huấn luyện liên tục.
- Đoàn sủng
- Tìm về đoàn sủng, nền tảng sự hợp nhất cộng đoàn
- Nền tảng của sự hiệp nhất cộng đoàn được củng cố bởi đoàn sủng duy nhất của Đấng Sáng Lập.
- Quy chiếu về vị Sáng Lập Dòng, và về đoàn sủng mà vị ấy đã sống và thông truyền, gìn giữ và phát triển qua suốt cuộc sống của hội dòng, được coi là yếu tố thiết yếu cho sự hiệp nhất của cộng đoàn.
- Hiểu tường tận và tránh những mập mờ
2.2.1 Hiểu tường tận
Sống trong cộng đoàn là cùng nhau sống Thánh ý Thiên Chúa phù hợp với đường hướng đoàn sủng mà vị sáng lập đã nhận được từ Thiên Chúa và truyền lại cho các thế hệ đúng tinh thần của đoàn sủng này.
Sự hiểu biết sâu xa về đoàn sủng làm hiểu rõ rệt hơn về căn tính riêng của Hội Dòng.
Xoay quanh căn tính đó, việc xây dựng sự hiệp nhất và hiệp thông sẽ dễ dàng hơn.
Việc nắm bắt sáng suốt căn tính đoàn sủng của Hội dòng làm nảy sinh những điều chỉnh có tính sáng tạo đối với những hoàn cảnh mới, và điều này đưa tới những triển vọng tích cực cho tương lai của Hội dòng.
-
-
- Tránh hiểu mập mờ ngây ngô
Thiếu sáng suốt trong lãnh vực này có thể dễ gây ra sự bất ổn cho các mục tiêu và tổn thương cho những hoàn cảnh chung quanh đời tu, những luồng văn hoá và những nhu cầu tông đồ khác; thậm chí còn có thể làm cho công cuộc thích nghi và canh tân không thực hiện được
Cần phải phát triển căn tính đoàn sủng riêng của Hội Dòng, nhất là để tránh một thứ “đại loại” vốn là mối đe doạ thực sự cho sức sống của cộng đoàn tu trì.
- QUYỀN BÍNH ĐỂ PHỤC VỤ TÌNH HUYNH ĐỆ
- Tính nhân loại
Nguồn gốc quyền bính để phục vụ Tin mừng và xây dựng sự hiệp nhất. Những phát triển tích cực này có nguy cơ bị tổn thương do thiếu tin tưởng vào quyền bính.
Một số người coi quyền bính là hoàn toàn không cần thiết cho đời sống cộng đoàn, số khác lại giản lược vào vai trò thuần tuý phối hợp những sáng kiến của các phần tử. Từ đó dẫn đến hậu quả:
- Một số cộng đoàn sống không có người phụ trách, trong khi ở các cộng đoàn khác, mọi quyết định đều có tính cách tập thể.
- Nguy cơ : Đổ vỡ đời sống cộng đoàn hoàn toàn; Chủ ý nhắm ưu tiên cho những đường lối cá nhân; Làm lu mờ chức năng quyền bính, một chức năng vừa cần thiết cho sự thăng tiến đời sống huynh đệ cộng đoàn, vừa cần thiết cho hành trình thiêng liêng của người tận hiến.
- Hiểu đúng ý nghĩa và vai trò quyền bính
- Ý nghĩa và vai trò
Quyền bính đến từ Thiên Chúa, đặt nền trên nguồn gốc Tin Mừng, liên kết với việc phục vụ sự tiến bộ thiêng liêng của mỗi người và phát triển tình huynh đệ trong cộng đoàn.
Theo tinh thần Tin Mừng, quyền bính luôn luôn là để phục vụ.
-
- Quyền bính trong chiều hướng canh tân
- Quyền bính về tâm linh
- Quyền bính cổ võ và nâng đỡ sự tận hiến.
- Quyền bính có thể được coi là “tôi tớ của các tôi tớ Thiên Chúa”.
- Nhiệm vụ chính của quyền bính :
- Xây dựng, trong sự hiệp nhất anh chị em, một “cộng đoàn huynh đệ trong đó mọi người tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự”.
- Bề trên phải là người tâm linh, xác tín tính ưu việt của khía cạnh tâm linh, vừa liên quan tới đời sống cá nhân lẫn sự phát triển đời sống huynh đệ. Ngài phải biết rằng tình yêu Thiên Chúa càng tăng trong tâm hồn mỗi cá nhân, thì càng có sự hiệp nhất giữa các tâm hồn hơn.
-
- Quyền bính kiến tạo sự hiệp nhất
- Quyền bính quan tâm lo sáng tạo bầu khí thích hợp cho sự chia sẻ và tinh thần đồng trách nhiệm:
- Khuyến khích mọi người đóng góp vào công việc chung.
- Cổ võ các phần tử đảm nhận và tôn trọng trách nhiệm.
- Lưu tâm đến con người.
- Cổ võ đức tuân phục tự nguyện.
- Sẵn lòng lắng nghe các phần tử.
- Xúc tiến sự cộng tác hài hoà vì lợi ích của hội dòng và của Giáo Hội.
- Tham gia đối thoại và tạo những cơ hội gặp gỡ thuận tiện.
- Đem lại sự can đảm và hy vọng trong những lúc khó khăn.
- Dự đoán và vạch ra những chân trời mới cho sứ vụ.
-
- Quyền bính có khả năng quyết định cuối cùng và bảo đảm việc chấp hành
- Khi một quyết định đã được đưa ra thực hiện theo đúng thủ tục do luật riêng ấn định, các bề trên cần nhiều kiên nhẫn và can đảm để bảo đảm rằng những gì đã được quyết định không chỉ là những chữ viết ghi trên giấy tờ.
- Phải xác định rõ ràng thẩm quyền liên hệ của cộng đoàn, của những hội đồng khác nhau, của những vị điều phối các ban ngành và của bề trên. Một cái nhìn thiếu sáng suốt trong lãnh vực này sẽ là đầu mối gây ra lộn xộn và xung đột.
- Đức tin đóng vai trò quyết định giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm cứu độ của đức tuân phục. “Cũng như vì sự bất tuân của một người đưa đến sự tan rã của gia đình nhân loại, và sự tuân phục của Con Người Mới đã khởi đầu công cuộc tái tạo (x. Rm 5,19).
- Thái độ tuân phục sẽ luôn luôn là một sức mạnh thiết yếu cho đời sống cộng đoàn và trở nên một thực tại Phúc Âm thích hợp trong Giáo Hội và trong xã hội.
- CỘNG ĐOÀN, ĐỊA ĐIỂM THI HÀNH SỨ VỤ
- Vị trí và vai trò
Chúng ta thi hành sứ vụ dòng theo đoàn sủng nhân danh Hội Thánh và phục vụ sứ mệnh đặc thù được Hội Thánh ủy nhiệm. Điều này làm nên bản chất của Dòng và chúng ta phải thi hành sứ vụ này bao lâu còn hiện hữu giữa lòng Giáo Hội.
- Gắn kết với Giáo hội địa phương
Việc thi hành sứ vụ của cộng đoàn thường được hiểu trong khung cảnh của một Giáo hội địa phương. Nó đem đến cho Giáo hội đó sự phong phú của đời thánh hiến, của tình huynh đệ và đoàn sủng của mình.
Các hình thức biểu lộ :
Sự hiện diện: Cộng đoàn làm thành lời loan báo sứ điệp Kitô giáo cách đặc biệt hiệu nghiệm. Có thể nói đó là một lời rao giảng sống động và liên tục. Gương sáng của đời chứng ta làm cho sự hiện diện của tu sĩ nơi Giáo Hội địa phương dễ nhận ra và quý giá hơn bất cứ một thẩm định nào khác.
Đức ái: Đó là đoàn sủng lớn nhất cần được biểu lộ. Cộng đoàn tu trì yêu mến Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội địa phương nơi cộng đoàn tháp nhập, vì chính trong Giáo Hội và như Giáo Hội mà cộng đoàn gắn bó với sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh, nguồn mạch mọi sự lành. Trong cách này, cộng đoàn đặc biệt biểu lộ chính bản chất của Giáo Hội.
Tránh thái cực là hiện diện mà không gắn bó với Giáo Hội địa phương; Hoặc chỉ giản lược vào các phận sự mục vụ mà thôi.
Đời tu không tách rời, độc lập với Giáo Hội địa phương, hay thay thế Giáo Hội địa phương. Giáo Hội địa phương cũng không áp đặt quyết định của mình đối với cộng đoàn tu trì hay bất cứ phần tử nào của cộng đoàn.
Xác tín quan trọng: Cộng đoàn tu sống và biểu lộ tình huynh đệ đích thực có sức hấp dẫn, lôi cuốn và làm lan toả bầu khí hiệp thông, bầu khí làm cho toàn thể cộng đoàn Kitô hữu trở thành gia đình con cái của Thiên Chúa.
- Cộng đoàn tu trì với Giáo xứ
- Khó khăn hòa nhập
Một số nơi hoạt động mục vụ của cộng đoàn tại giáo xứ đã gây ra những căng thẳng đáng kể đối với các linh mục.
Mặt khác những ràng buộc nặng nề của công việc mục vụ trong giáo xứ đã làm phương hại đến đoàn sủng của hội dòng và đời sống cộng đoàn đến nỗi các vị quản xứ, hàng giáo sĩ triều và ngay cả chính các tu sĩ cũng không nhận rõ được bản chất riêng biệt của đời tu.
-
- Cần lưu tâm
Dù nhu cầu mục vụ khẩn thiết cũng không làm ta quên rằng, sự phục vụ tốt nhất của cộng đoàn tu trì có thể đem lại cho Giáo Hội là trung thành với đoàn sủng của mình. Càng hiện diện theo đoàn sủng của mình càng đem lại nhiều hoa trái.
Chúng ta cũng cần xét lại các hình thức hoạt động tông đồ. Văn kiện “Những yếu tố cốt yếu của đời tu” (số 27) đã đưa ra những khuyến cáo về ba cơn cám dỗ khi xây dựng kế hoạch hoạt động tông đồ: (1) muốn ôm đồm mọi hình thức hoạt động tông đồ, (2) bỏ đi những hình thức hoạt động truyền thống theo đặc sủng của dòng, để chạy theo những hoạt động đáp ứng nhu cầu xã hội tức thời, nhưng lại không hợp với đặc sủng của dòng, (3) phân tán nhân lực dòng vào những hoạt động ngắn hạn, chỉ liên hệ đến đặc sủng một cách mơ hồ; do đó, với thời gian, tính cách đồng nhất trong việc thực hiện đặc sủng của Dòng sẽ bị tổn thương. [1]
- Thiết lập các cộng đoàn nhỏ
Bối cảnh xã hội mới
Tại nhiều nơi các lãnh vực xã hội phát triển và hình như chỉ để lại ít hoặc không để lại chỗ trống nào cho các tác nhân khác, như các cộng đoàn tu trì. Rồi sự hiện diện của người Công Giáo trong các hoạt động xã hội chỉ được coi có tính cách bổ túc hơn là một biểu hiện đích thực.
Cộng đoàn nhỏ được thiết lập nhằm cổ võ sự hiệp nhất và cộng tác huynh đệ qua những mối liên hệ gần gũi hơn giữa các cá nhân, qua việc chia sẻ trách nhiệm hỗ tương và dựa trên căn bản rộng rãi hơn.
Phương cách tránh ảnh hưởng thế tục
Cộng đoàn nhỏ do thường tiếp xúc gần gũi với cuộc sống và các vấn đề hằng ngày của con người nên dễ bị ảnh hưởng nhiều bởi não trạng thế tục.
Trở nên những nơi chốn hữu hình của một tình huynh đệ hạnh phúc, của sự cần cù quảng đại và của niềm hy vọng siêu việt.
Cần một chương trình sống phù hợp với sứ vụ; vững vàng, linh động và chặt chẽ; phát triển hài hoà việc cầu nguyện và hoạt động, sống gần gũi thân mật trong cộng đoàn và lúc hoạt động tông đồ. Được sự chấp nhận của Giáo Hội về việc tông đồ mang tính cộng đoàn.
Lời khuyên hữu ích: Dù lợi ích từ các cộng đoàn nhỏ đem lại cũng cần giới hạn việc thiết lập dòng tu chỉ gồm cộng đoàn nhỏ. Rất cần có những cộng đoàn lớn để cung cấp đầy đủ ý nghĩa cho toàn hội dòng lẫn các cộng đoàn nhỏ hơn, nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện và các việc cử hành nghi lễ sốt sắng và phong phú hơn; là nơi thích hợp để nghiên cứu và suy tư; là nơi tĩnh tâm và nghỉ ngơi cho các thành viên đang hoạt động trên những biên cương đầy khó khăn của sứ vụ rao giảng Phúc Âm.
- Các tu sĩ nam nữ sống một mình
5.1 Nền tảng
Sống trong một cộng đoàn là lối sống chính yếu của đời tu. Các tu sĩ phải sống trong nhà dòng của mình, tuân thủ nếp sống chung. Họ không nên sống một mình nếu không có lý do hệ trọng, và không nên sống như vậy nếu có một cộng đoàn của hội dòng ở gần đấy.
Nếu có những ngoại lệ cần được các bề trên lượng định và cho phép vì lý do tông đồ nhân danh hội dòng, hoặc vì lý do sức khoẻ và học hành.
Bề trên có trách nhiệm liên lạc thường xuyên với các thành viên sống ngoài cộng đoàn. Tu sĩ luôn ý thức rằng mình thuộc về hội dòng và hiệp thông trọn vẹn với các phần tử của hội dòng.
Tu sĩ sống một mình không bao giờ là điều lý tưởng. Họ phải trở về đời sống này, cả tâm hồn lẫn con người, trong khi vì cần thiết, họ phải sống cách biệt một thời gian dài hoặc ngắn.
Hướng mở và những trở ngại
Các tu sĩ liên kết thành đội ngũ liên hội dòng để lo thiện ích lớn. Ích lợi cho họ khi sống chung một nhà, cầu nguyện chung với nhau, họp nhau để suy niệm Lời Chúa, chia sẻ lương thực và những công việc trong nhà.
Tu sĩ nên cẩn thận khi muốn đảm nhận một công việc mà bình thường đòi hỏi họ phải sống ngoài cộng đoàn.
Việc chăm sóc cha mẹ già yếu bệnh tật thường kéo theo sự vắng mặt lâu dài khỏi cộng đoàn cũng cần được lưu tâm, không thuận lợi khi phải vắng mặt quá lâu.
Tu sĩ sống một mình, không có sự bổ nhiệm hay phép của bề trên, là đang trốn tránh bổn phận sống chung. Tham dự một vài cuộc hội họp hay nghi lễ chưa đủ để là một tu sĩ trọn vẹn. Phải nỗ lực dẹp bỏ dần dần những hoàn cảnh không chính đáng và không thể chấp nhận được như thế đối với các tu sĩ nam nữ.
Sống ngoài cộng đoàn, tu sĩ lệ thuộc quyền của giám mục trong lãnh vực hoạt động tông đồ.
Nguy cơ khi các thành viên không còn sống trong cộng đoàn là làm cho hội dòng đó đã mất tính năng cộng đoàn và không còn được coi là dòng tu thực sự. Các bề trên và các tu sĩ cần mạnh mẽ phục hồi việc thực hành đời sống chung huynh đệ.
- KẾT LUẬN
Cộng đoàn tu trì, là cách biểu lộ dấu chỉ sống động của Giáo hội; hoa quả của Chúa Thánh Thần, và là sự tham dự vào sự hiệp thông của Ba Ngôi. Vì thế, mọi tu sĩ đều phải cảm thấy mình đồng trách nhiệm đối với đời sống huynh đệ cộng đoàn.
Hiệu quả của đời sống tu trì tuỳ thuộc vào phẩm chất của đời sống huynh đệ cộng đoàn
Đối với một vài tu sĩ và một vài cộng đoàn, công việc khởi sự tái xây dựng nếp sống huynh đệ cộng đoàn có vẻ là một chuyện chán nản, thậm chí không tưởng. Đứng trước một số vết thương trong quá khứ và những khó khăn trong hiện tại, công việc có vẻ vượt quá các khả năng của con người yếu đuối.
Vấn đề là suy tư trong đức tin về ý nghĩa thần học của đời sống huynh đệ cộng đoàn, của việc xác tín rằng chứng tá sự thánh hiến tuôn trào từ đời sống đó.
Đức Thánh Cha nói : « Câu trả lời cho lời mời gọi cùng với Chúa kiên trì xây dựng cộng đoàn mỗi ngày diễn ra trên đường thánh giá; câu trả lời này đòi hỏi phải bỏ mình thường xuyên » (88).
Nhờ Đức Mẹ chuyển cầu, xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta suy tư và tìm ra được những định hướng cụ thể, xác tín, hữu hiệu giúp củng cố, xây dựng và phát triển đời sống cộng đoàn.
Tài liệu thao khảo:
- Sắc lệnh, Đức Ái Hoàn Hảo (PC), số 15.
- Tông huấn Đời Sống Thánh Hiến - Vita Consecrata (VC), số 42.
- Huấn thị Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn; Tài liệu suy tư nguồn của đề tài.
- Văn kiện Những yếu tố cốt yếu của đời tu- Essential Element (EE), số 13-53.
- Lm. Phan Tấn Thành, Giải Thích Giáo Luật Quyển 2- Dân Thiên Chúa, tập 4, Các Hội Dòng Tận Hiến và các Tu Đoàn Tông Đồ (Rôma, 1993).
Fm. Đaminh Savio Nguyển Tuấn Hào– Ocist- Đan Viện trưởng
[1] (x. Phan Tấn Thành, Giải Thích Giáo Luật Quyển 2 - Dân Thiên Chúa, tập 4, Các Hội Dòng Tận Hiến và các Tu Đoàn Tông Đồ, tr. 762- 763).