CHA BÊNAĐÔ MARIA
HẠT LÚA MÌ CỦA MẸ MARIA
“Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
Nt. Maria Huệ Di, Cmr
Có thể nói cuộc đời của Cha Đồng Sáng lập Bênađô Maria đã nên như hạt lúa gieo vào lòng đất chịu thối đi và chết đi để rồi sau 87 năm nó đã sinh ra nhiều bông hạt.
‘Hạt lúa Bùi Văn Khẩn’ được gieo vào lòng đời từ ngày 24.11.1919. Được ươm trồng nơi mảnh đất Việt nhỏ bé, trong một gia đình công giáo nghèo khó, nên từ thiếu thời ‘hạt lúa Đaminh’ đã phải chịu nép mình trong cảnh ngặt nghèo thiếu thốn.
Lên 11 tuổi Cậu Đaminh đi ở nhà Đức Chúa Trời và được đổi tên là Đaminh Bùi Quang Trạc, đến năm 1935 Cậu lên Trường Latinh Ninh Cường. Nơi đây Thầy Chủng Sinh đã được in đậm nét lòng say yêu Đức Mẹ. ‘Hạt lúa’ bắt đầu được chôn vùi khi hồng ân tuyển chọn đi du học tại Trường Truyền Giáo Rôma bị ngưng lại vì thế chiến thứ 2 đang bùng nổ, Thầy Trạc lại tiếp tục trở về thụ huấn tại Đại Chủng viện. Sau này ‘Hạt lúa’ đã nói lên cảm nghiệm: “Cha không thể theo học tại Rôma đó là một ơn Chúa và do Mẹ Maria can thiệp, để Cha hết lòng cậy trông vào Chúa và Mẹ hơn. Vì có thể sự thông thái dễ đưa Cha xa Thiên Chúa, xa Đức Mẹ và xa Giáo hội”.
Tại Trường Lý Đoán Phú Nhai năm 1939, Thầy Đaminh đã được hấp thụ lòng sùng kính Hai Thánh Tâm, việc tận hiến cho Mẹ Maria theo Thánh Louis Marie Grignion de Montfort và con đường nhỏ của Thánh Nữ Têrêsa. Ngày 19.12.1941 Thầy đã tận hiến cho Mẹ Maria. Với lòng trung thành sống tận hiến phó thác trọn vẹn đời mình cho Chúa Giêsu qua tay Mẹ Maria, để cho các Ngài được tự do định đoạt về cuộc đời mình theo ý các Ngài; ‘Hạt lúa Đaminh’ đã hư hao trong lòng đất Mẹ, như lời tâm sự: “Khi Cha đã tận hiến cho Đức Mẹ rồi, Cha phải chịu biết bao thử thách khiếp khủng, vì Mẹ có ý huấn luyện cho Cha thành một linh hồn sống tận hiến đúng nghĩa, chính những thử thách ấy đã làm cho Cha trở nên một con người ý chí và gan dạ, để sau này có thể chịu đựng được những đau khổ khi nhận Dòng Trinh Vương (30.4.2003).
Biến cố hè năm 1947 làm cho ‘Hạt lúa Đaminh’ tan dần khi Thầy phải hoãn lại không được chịu chức Linh Mục với anh em cùng lớp. Tuy tự nhiên cũng phải chiến đấu nhiều lắm, nhưng Thầy đã nhận ra đây là dấu hiện yêu thương của Mẹ trên trời muốn tỏ cho đứa con đã tận hiến làm nô lệ, hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của Mẹ. Nhờ đó mà Thầy được Thụ Phong Linh Mục vào cuối tuần bát nhật kính Mẹ Vô Nhiễm.
Ngày hạnh phúc tiến chức Linh Mục 14.12.1947, chính hạt lúa đã xóa nhòa mình đi để tình yêu Hai Trái Tim được lớn lên bằng từ chối tất cả những gì là bên ngoài: mặc áo Dòng mới, mang cổ col, đi giầy tây lộp cộp… mà chỉ mặc chiếc áo chùng cũ, dù bị chê bai. Khi được sai đi làm Cha Phó xứ Thức Hóa, hạt lúa âm thầm hăng say đón nhận nhiệm vụ trong tinh thần quên mình, hy sinh… còn phần vinh dự, tiếng khen luôn dành cho Cha Xứ.
Năm 1949 Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi gọi Cha về làm Cha linh hồn Trường Thử Trung Linh và Cha giải tội cho Dòng Mân Côi. Sau 3 năm thi hành nhiệm vụ này, ngày 18.1.1953 ‘hạt lúa mì Đaminh’ muốn dâng hiến cho Chúa cách mật thiết hơn nữa trong nếp sống tu Dòng, Cha đã gia nhập Dòng Đồng Công. Hạt lúa đã không tìm cho mình mảnh đất dâng hiến giàu sang Dòng gốc ngoại quốc danh tiếng, nhưng vui sướng chôn vùi đời mình trong một Hội Dòng Việt Nam để xây dựng cho Giáo Hội Việt Nam và sống đời tận hiến cách hoàn hảo hơn (8.2.2004).
Bắt đầu cuộc đời thánh hiến trong Đòng Đồng Công, Cha được đổi tên là Bênađô Maria Rosa Bùi Khải Hoàn, (Cha thích gọi tắt là Bero) ‘Hạt lúa Bênađô Maria’ lúc này đã đón nhận nhiều cuồng phong gió bấc bởi cuộc sống tu của một Dòng vừa mới được thiết lập thật nghèo nàn, đời sống chung đòi nhiều hy sinh, cố gắng hòa mình với các anh em nhỏ, đón nhận lời sửa dạy… Tự nhiên hạt lúa cũng cảm thấy ngại ngùng, nhưng nghĩ mình đã tự nguyện vào Dòng để nên thánh, vì thế hạt lúa rất bình an và vui sướng lợi dụng tất cả (4.4.1993).
Sau khi tuyên khấn lần đầu Cha Bênađô Maria nhận được bài sai ‘Đi coi Dòng Khiết Tâm’ do Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi thiết lập. Mấy tháng sau Hiệp Định Genère chia đôi Nước Việt Nam, Cha Bề Trên Cả lại sai Cha Bênađô Maria lo liệu vào Miền Nam trước để giữ Dòng. Khi đã vào Miền Nam, ngày 10.11.1954, Đức Cha Phêrô Maria và Cha Bề Trên Cả lại sai Cha “ Đi lo cho Dòng Mến Thánh Giá Bùi Chu”. ‘Hạt lúa mì’ vì đã khấn vâng lời nên đã cố gắng thưa xin vâng (28.6.1992) vui lòng chết đi ý riêng để đón nhận nhiệm vụ mà mình đã muốn trốn thoát.
Ngày chính thức thi hành nhiệm vụ, ‘Hạt lúa Bênađô Maria’ không còn giờ để nghĩ đến những băn khoan, lo lắng, ngại ngùng của riêng mình, ngoài việc chạy theo cho kịp xe của Hội Dòng Mến Thánh Giá Bùi Chu đang đi về Ngũ Hiệp-Mỹ Tho, với cả gia tài gồm 3 chị Khấn và 6 Tập Sinh, không nhà ở, không của cải... Trong niềm tin tưởng phó thác cho Chúa và Mẹ trên trời, Cha đã đón nhận Hội Dòng với trọn cả trái tim của một người Cha, một người Mẹ để lo cho đoàn con.
Từ đây với vai trò một Bề trên, một Đấng Đặc Trách Cải Tổ Dòng, ‘Hạt lúa Bênađô Maria’ đã trải qua một giai đoạn chết đi từng ngày với bao viễn tượng khổ đau và thử thách.
Khi nhận Dòng Mến Thánh Giá Bùi Chu, ‘Hạt lúa Bero’ phải trở nên như người mẹ chăm sóc con thơ, vừa lo hướng dẫn đời sống thiêng liêng, vừa chỉ dạy cho biết làm việc, lo cho từng miếng cơm, viên thuốc, tìm kiếm việc làm để có tiền cho chị em ăn học, xây dựng nhà cửa... Rồi những ngày tháng miệt mài đem hết khả năng sức lực để viết Hiến Pháp cho Dòng hầu thoát khỏi mối nguy bị sáp nhập vào Dòng khác. Một điều an ủi cho ‘Hạt lúa’ là đã thấy các ơn gọi được sinh ra dần dần thêm đông dưới mái nhà lá vách bạt của Hội Dòng.
Lúc Dòng vừa được phép giữ thử nghiệm Hiến Pháp với danh hiệu ‘Nữ Tu Thừa Sai Đức Mẹ Trinh Vương’ và có ban trị sự đầu tiên năm 1960, Hội Dòng đã gặp một thử thách lớn. ‘Hạt lúa Bênađô Maria’ đã bị giằng co giữa khắc khoải và niềm tin, đau khổ không ai hiểu được, chỉ biết than khóc với Chúa và Đức Mẹ: “Có Chúa, có Mẹ thật không mà sao để cho con khổ quá thế này?” Nhưng những nỗi khổ ấy đã dẫn Cha đến niềm tin tưởng mãnh liệt nơi Mẹ Maria và đã trổ sinh bông hạt tuyệt vời cho Dòng là tôn đặt Mẹ Maria làm Mẹ Bề Trên Dòng (8.12.1962).
Từ ngày có sự hiện diện của Mẹ Bề Trên Maria ở giữa Hội Dòng tuy âm thầm nhưng thực sự và đầy yêu thương. Với lời bầu cử vạn năng Mẹ đã đem đến cho Hội Dòng một bầu khí ấm áp vui tươi thánh thiện hơn, ngày lễ Mẹ đi Thăm Viếng 31.5.1966 Hiến Pháp và Tên mới của Dòng đã được Tòa Thánh chính thức phê chuẩn. ‘Hạt lúa Bênađô Maria’ đã chết đi bởi những đau khổ của bao năm tháng khởi đầu xây dựng Dòng, cùng với những thao thức mong đợi nay đã kết thành bông hạt quý giá. Thiên Chúa và Mẹ Trinh Vương đã chúc phúc cho Cha được an bình thanh thản bên đoàn con với ban trị sự mới theo Hiến Pháp được phê chuẩn. Và cho Hội Dòng được phát triển tốt đẹp về nhân sự, tinh thần cũng như về kinh tế, Dòng đã có đủ khả năng xây dựng và thiết lập thêm các cộng đoàn để dấn thân phục vụ Nước Chúa.
Năm 1972 đến 1974, một cơn sóng ngầm nhưng thật mạnh mẽ làm cho Hội Dòng phải điêu đứng và ‘Hạt lúa Bero’ lại được vùi dập da diết hơn, vai trò của Cha trong Hội Dòng dường như bị loại ra, Cha không còn được dễ dàng thi hành nhiệm vụ của mình nữa. Cha nhìn thấy chị em chưa kịp tuyên khấn đã được ‘Tuyên Hứa’ để ra đi phục vụ tại các trường hay vào các công việc của Dòng; nhiều chị em bị rơi vào tình trạng đói khát cả thể xác lẫn tinh thần, nhiều ơn gọi phải bỏ Dòng ra đi, người còn ở lại tu thì hoang mang lo sợ… Đây là những khổ nhục như muốn nghiền nát ‘Hạt lúa’. Có lần buồn tủi quá, Cha đã thưa với Cha Bề trên Cả: “Hoàn cảnh của em hiện giờ thì em nên ở lại Trinh Vương hay về Dòng Đồng Công?” Cha Bề trên trả lời: “Em chịu khó ở lại, chớ về! Kẻo bây giờ Em về thì chị em xuất hết” (11.2.1974). Thế là Cha vâng lời Bề trên, cố gắng ở lại. Cha tin tưởng Mẹ Bề Trên Dòng luôn trung thành với nhiệm vụ, Mẹ không thể để mất nhà Dòng.
Trước ngày 30.4.1975 thấy tình hình chiến sự khốc liệt, mọi người Dân Miền Nam Việt Nam, nhất là những người Kitô giáo đều sống trong lo sợ, ai cũng đổ xô ra biển để đi tìm tự do. ‘Hạt lúa Bênađô Maria’ rất băn khoăn lo lắng cho vận mệnh của Dòng, Chúa đã đáp lại ước nguyện của Cha: Đức Giám mục địa phận Ballarat, Úc Châu đã sẵn sàng nhận 30 nữ tu Dòng Trinh Vương nhập vào địa phận của ngài.
Cha Bênađô Maria cũng được giới thiệu cho một chiếc tàu có thể đưa cả Hội Dòng qua Mỹ. Cha đã suy nghĩ và đi tìm ý Chúa nơi Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình, và được trả lời: “Đừng đi! Ô danh Chúa! Ố danh Giáo hội! Ở lại để làm chứng cho Chúa”. Thế là ‘hạt lúa Bero’ đã an tâm từ chối chuyến tàu và giúp chị em vâng theo ý Chúa, rắp tâm ở lại Việt Nam để sống Phúc Âm giữa lòng Dân Tộc, phó thác mọi sự cho Chúa và Đức Mẹ (26.4.1975).
Ngày 30.4.1975 thống nhất Nước Việt Nam trong chủ nghĩa Cộng Sản, ‘Hạt lúa Bero’ đang trong bóng tối của thử thách đã nhìn thấy ánh sáng: “Đây là ngày Chúa giải phóng cho Hội Dòng Trinh Vương, giải thoát chị em khỏi vòng xoáy của công việc bên ngoài, của những khắc khoải cuộc sống để trở về với đời tu đích thực là tìm kiếm và yêu mến Chúa trên hết mọi sự”.
Sau biến cố đau thương của Đất nước, các chị thủ lãnh của Dòng rất hoang mang, sợ hãi, các chị không biết phải làm gì để lo cho Dòng. Sự hiện diện ‘Hạt lúa Bênađô Maria’ ở giữa chị em lúc này đã trở thành cột trụ, nên chỗ dựa kiên vững cho chị em. Vì tình hình khó khăn hiện tại, Cha đã xin với Đấng Bản Quyền chuyển Nhà Mẹ của Dòng lên Phú Hiệp, Di Linh, Lâm Đồng để sinh sống và duy trì Hội Dòng. Tại đây ‘Hạt lúa Bêrô’ đã để tâm đến hết mọi chị em, quán xuyến, góp ý, hướng dẫn và cùng làm việc với các chị thủ lãnh. Với lòng tín thác Cha đã được ơn thúc giục mạnh mẽ: “Tôn đặt Thánh Giuse làm Quản Gia DòngTrinh Vương”. Kết quả lạ lùng là từ ngày có Cha Thánh Giuse Quản Gia thì mọi công việc trong ngoài của Hội Dòng được tiến triển đều đặn, chị em vui sống trong bình an hạnh phúc, dù Nhà Nước vẫn luôn tìm mọi âm mưu để buộc tội và bắt bớ Nhà Dòng (29.3.2005).
Thời gian này đời sống Hội Dòng giống như một Đan Viện, ‘Hạt lúa Bênađô Maria’ trở nên như một Viện Phụ lo cho chị em nên thánh với chương trình hằng ngày là ‘cầu nguyện và làm việc’, tự lực cánh sinh. Tuy cuộc sống đầy âu lo, nghèo đói nhưng tinh thần tu trì thật mạnh mẽ và tình nghĩa gia đình Dòng thật mặn mà. Nhờ có Mẹ Bề Trên và Cha Thánh Quản Gia phù trợ, cùng với những hy sinh lao động âm thầm của ‘Hạt lúa Bero’ và con cái mà suốt thời gian tu trì lặng lẽ này, ơn gọi vẩn trổ sinh tươi tốt trong lòng Mẹ Dòng.
Tiến tới thập niên 1989-1999: Bầu khí bình yên của khung trời Phú Hiệp đột nhiên gặp một trận bão khá nặng và gây nhiều đau thương cho Hội Dòng. ‘Hạt lúa Bênađô Maria’ bị giày xéo đau thương từ con cái tha hương, các linh mục quen biết, Đấng Bản Quyền địa phương, đã cho Cha chỉ là tuyên úy Dòng thôi mà ở lại trong nhà Dòng Trinh Vương quá lâu rồi, cần phải đưa về Dòng Đồng Công để sống đời sống Dòng với anh em, kẻo cứ ở lại Dòng Trinh Vương sẽ gây tại họa cho Dòng. ‘Hạt lúa Bero’ chỉ biết thưa với các Đấng: “Cha Bề Trên sai con qua đây, xin cứ nói với ngài, ngài gọi con về là con về ngay”. Với tinh thần vâng phục và sự nhẫn nhục chịu đựng để chết đi của ‘hạt lúa’, gió đã đổi chiều và một bông hạt mới được kết thành và tuyên dương: Tòa Thánh đã tuyên bố chỗ đứng của Cha trong Hội Dòng Trinh Vương: Vì Cha Bênađô Maria đã viết Hiến Pháp thứ nhất cho nhóm các Mến Thánh Giá Bùi Chu, nên ngài được coi là “Vị Đồng Sáng Lập”, và tên ngài được đặt trong sách Quy Luật, chứ không phải chỉ trong lịch sử của Dòng thôi đâu (Vatican 18.9.1999).
Đến năm 2000: Lại một cơn gió lốc thổi đến Hội Dòng bởi một hiểu lầm. ‘Hạt lúa Bênađô Maria’ được lệnh của chính Cha Sáng lập Dòng Đồng Công gọi Cha về Dòng chung sống với anh em. Chị em nghe biết thì lo lắng, chờ đợi biến cố xảy đến, còn ‘Hạt lúa’ thì lại yên hàn chết đi trong đức vâng lời. Cha nói: “Cha luôn cầu nguyện để thánh ý Chúa được nên trọn. Vì thế Cha rất bình tĩnh, không mất ngủ chút nào, cũng không áy náy gì, chỉ phó mặc cho thánh ý Chúa. Cha Bề Trên trao cho Cha đi xây dựng một Dòng nữ hẳn hoi. Cha vâng lời hoàn toàn chứ không có ý muốn lập Dòng hoặc coi Dòng! Chỉ biết một điều: Bề Trên bảo thì vâng lời làm”. Chúa đã ghé mắt nhìn Hội Dòng và thương thay cho thân phận hạt lúa, Ngài đã xoay chiều gió và xác nhận “Cha Bênađô Maria Bùi Khải Hoàn tiếp tục ở lại làm việc cho Dòng Trinh Vương mãi mãi” (19.7.2000). ‘Hạt lúa Bero’ đã cúi đầu hết lòng cảm tạ Chúa và Đức Mẹ đã để xảy đến như vậy để Cha có cơ hội thực tập việc trở nên Giêsu ấu thơ nằm ngủ trên cánh tay Mẹ” (19.7.2000).
Khắc khoải sau cùng:
Đầu năm 2005, ‘Hạt lúa Bero’ suy kiệt vì bệnh tật và tuổi già, sức khỏe của Cha suy giảm nhanh. Trước Tết 2006 ‘Hạt lúa’ đã tiên báo khi nhắn cha Antôn Nguyễn Đức Khiết: “… đến thăm trước Tết đi, nếu xuống sau Tết thì chỉ còn thăm cái cốt mà thôi”. Ngày 24.01.2006 cha Antôn đã đến thăm Cha Bênadô Maria. Cha Giáo hỏi ngài: “Nếu Chúa gọi Cha Bề Trên về với Chúa, thì Cha Bề Trên nghĩ về cái gì nhất?” Cha nói với tôi cách rất thành thật rằng: “Đó là tương lai của Hội Dòng. Không biết lúc tôi đi rồi, thì Hội Dòng có còn hiệp nhất, còn sống đúng linh đạo của Dòng không!”
Ngày 2.2.2006, ‘Hạt lúa Bênađô Maria’ với chút hơi thở mệt nhọc đã cố gắng quy tụ các chị Thủ lãnh trong Hội Dòng để nói lên niềm khắc khoải Cha đã luôn ôm ấp trong lòng suốt hơn 52 năm phục vụ Hội Dòng và nay đã trở nên thật mạnh mẽ. Cha nói: “Chúng ta thấy một điều là Chúa Giêsu đã hoàn toàn phó thác mình cho Mẹ Maria, để mặc Mẹ làm sao thì làm. Bây giờ Chúa muốn cho chúng ta cũng trở nên như thế. Chúng ta cần phải gạt bỏ con người tự nhiên của mình, bỏ đi những kế hoạch như ngưòi lớn mặc dù chúng ta đã lớn, nhưng như Chúa Giêsu, ta để Mẹ Maria muốn định đoạt về ta làm sao thì làm, ta hoàn toàn theo ý Mẹ. Ta trở nên Giêsu ấu thơ sống lệ thuộc Mẹ suốt cả cuộc đời, bắt chước Chúa không lúc nào Chúa không phải là con Đức Mẹ. Các chị suy ngắm chân lý đó, lần sau chúng ta thảo luận lại với nhau, đó là chân lý quý báu vô cùng”.
Những lời trên đây là lời trăn trối sau cùng cho đoàn con Trinh Vương. Và chiều hôm sau lúc 8g30 ‘Hạt lúa Bênađô Maria’ đã thực sự chết đi trong tiếng ‘Xin vâng ý Chúa’ sau cùng.
Suốt hơn 52 năm phục vụ, ‘Hạt lúa Bênađô Maria’ đã sẵn sàng chết đi, chôn vùi cuộc đời Linh mục và thánh hiến của mình trong mảnh đất Dòng Trinh Vương, chỉ khát mong cho nó được lớn lên vững vàng và sinh nhiều hoa thơm trái tốt trong lý tưởng “Trở nên một Giêsu Ấu Thơ con nhỏ của Cha trên trời nhờ Mẹ Maria”. Cha không bao giờ chán nhắc lại và chỉ vẽ cho chị em những điều cụ thể để đạt tới lý tưởng này.